Ngân hàng Phát triển Việt Nam kháng cáo: Luật sư kháng nghị bảo vệ tài sản Nhà nước

(Kinhdoanhnet) - Như Báo Kinh doanh & Pháp luật đã đăng tải bài viết "Về quyết định cưỡng chế thi hành án của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đăk Nông; Ngân hàng Phát triển Việt Nam với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; vừa là nguyên đơn dân sự đã có đơn kháng cáo lên Tòa án nhân dân Tối cao và Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao kiến nghị xem xét kháng nghị một phần bản án phúc thẩm số 357/2014/HSPT ngày 26/9/2014 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng theo thủ tục Giám đốc thẩm.

Nhằm đảm bảo tính khách quan, toàn diện và triệt để trong việc giải quyết vụ án hình sự có nhiều tình tiết phức tạp. Ý thức được điều đó, tại số báo này, Báo Kinh doanh & Pháp luật xin chuyển tải đến bạn đọc ý kiến của luật sư Trần Viết Hưng, Văn phòng Luật sư Công lý Hà Nội thuộc Đoàn luật sư Hà Nội.

 

Ngân hàng Phát triển Việt Nam kháng cáo: Luật sư kháng nghị bảo vệ tài sản Nhà nước - Ảnh 1
Luật sư Trần Viết Hưng, Văn phòng Luật sư Công lý Hà Nội thuộc Đoàn luật sư Hà Nội

 

Theo luật sư Trần Viết Hưng thì tại bản án phúc thẩm số 357/2014/HSPT ngày 26/9/2014 của Tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng đã xác định số tiền 511.464.742.716đ mà các doanh nghiệp: Công ty TNHH Thương mại dịch vụ Minh Nhật; Công ty TNHH Thương mại dịch vụ Nhật Tân; Hợp tác xã Sông Cầu; Công ty TNHH Thủy Ngân, đã thanh toán nợ cho Ngân hàng phát triển Việt Nam là vật chứng của vụ án. Do vậy Tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng quyết định, Ngân hàng Phát triển Việt Nam có trách nhiệm “chuyển số tiền vật chứng là 511.464.742.716 đồng cho Ngân hàng TMCP Phương Đông - Sở giao dịch Tp.Hồ Chí Minh (OCB) (gồm 100 tỷ đồng của Cao Bạch Mai; 305.903.549.653 đồng của Trần Thị Xuân; 30.000.000.000 đồng của Đặng Thị Ngân và 75.561.193.063 đồng của Nguyễn Thị Vân)”.

Về vấn đề này theo luật sư thì trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng đã xác định sai chủ thể tham gia giao dịch thanh toán các khoản nợ 511.464.742.716 đồng cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam là các cá nhân (Cao Bạch Mai, Trần Thị Xuân, Đặng Thị Ngân, Nguyễn Thị Vân), nhưng thực chất chủ thể bên tham gia giao dịch thanh toán các khoản nợ trên cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam là các Doanh nghiệp(Công ty TNHH Thương mại dịch vụ Minh Nhật; Công ty TNHH Thương mại dịch vụ Nhật Tân; Hợp tác xã Sông Cầu; Công ty TNHH Thủy Ngân), mà các cá nhân trên chỉ là người đại diện theo pháp luật cho các Doanh nghiệp trên, do vậy đã dẫn đến quá trình áp dụng pháp luật không đúng trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử.Trong quá trình giải quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng chưa xem xét một cách toàn diện các quy định của pháp luật về Dân sự, Doanh nghiệp, Luật các tổ chức tín dụng, để xác định rõ số tiền mà các Doanh nghiệp trên thanh toán nợ cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam có đúng với các quy định của pháp luật không? Từ đó mới xác định được số tiền trên thuộc quyền sở hữu của Ngân hàng Phát triển Việt Nam hay các Doanh nghiệp trên. Nếu chứng minh được các Doanh nghiệp trên thanh toán nợ cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam đúng với các quy định của pháp luật, số tiền trên thuộc quyền sở hữu hợp pháp của Ngân hàng Phát triển Việt Nam thì không có lý do nào buộc Ngân hàng Phát triển Việt Nam phải có trách nhiệm chuyển trả số tiền trên cho OCB.

Ngân hàng Phát triển Việt Nam kháng cáo: Luật sư kháng nghị bảo vệ tài sản Nhà nước - Ảnh 2
Ngân hàng phát triển Việt Nam

Theo hồ sơ vụ án thì vào thời gian cuối tháng 12 năm 2010, các DN trên có ký kết với VDB - CN ĐLĐN một số hợp đồng tiền gửi theo đúng với các quy định của pháp luật. Theo quy định thì hợp đồng tiền gửi này chỉ có hiệu lực kể từ ngày các DN trên chuyển đủ số tiền theo quy định tại Hợp đồng vào tài khoản của Ngân hàng VDB - CNĐLĐN (Bút lục số 36008).Nguồn gốc số tiền 511.464.742.716 đồng mà các DN thanh toán cho VDB - CNĐLĐN là do các DN trên được Ngân hàng Phương Đông - Hội sở TP HCM cho vay vốn thông qua hợp đồng vay tín dụng với mục đích là “bổ sung vốn kinh doanh”, trong quá trình kinh doanh, các DN gặp khó khăn, nên đã có văn bản xin rút vốn trước thời hạn hợp đồng tiền gửi để trả nợ cho VDB - CNĐLĐN. Trong công văn, các DN trên cũng đã cam kết chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật về khoản tiền của mình (Bút lục số 36198). Khi có yêu cầu hợp pháp của chủ tài khoản là các DN trên thì VDB – CNĐLĐNphải làm thủ tục cho các DN trên rút vốn trước hạn, đồng thời thu nợ quá hạn theo đúng quy định của pháp luật. Đây là quyền hợp pháp của các chủ sở hữu tài khoản được pháp luật bảo vệ, thể hiện tại Điều 472 Bộ luật Dân sự. Điều luật này quy định: “Bên vay trở thành chủ sở hữu tài sản vay từ thời điểm nhận tài sản đó”.Số tiền có trong tài khoản của các DN được gửi tại VDB - CNĐLĐN là số tiền thuộc quyền sở hữu của các DN. Việc VDB - CNĐLĐN chấp thuận cho các DN trên rút tiền gửi trước hạn là đúng quy định của pháp luật, vì VDB - CNĐLĐN đã thực hiện theo yêu cầu của chủ tài khoản và tại thời điểm đó không có đề nghị phong tỏa tài khoản hợp pháp nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và của OCB, bản tự cam kết phong tỏa tài khoản trước đây của DN đã được chính các trên DN gửi văn bản tự hủy bỏ cam kết trên trước khi ký các giấy tờ thanh toán nợ (giữa VDB và OCB với khách hàng chưa ký bất kỳ bản cam kết phòng tỏa tại khoản). Các bản tự cam kết của các doanh nghiệp trên, tuy trước đó có được gửi đến VDB - CNĐLĐN và OCB, nhưng lại không có xác nhận của OCB. Do đó đây chỉ là ý kiến tự cam kết đơn phương của các DN tự ký và gửi cho VDB - CNĐLĐN (Bút lục số 36186). Căn cứ Điều 12 Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN ngày 21/11/2002 của Ngân hàng Nhà nước quy định như sau : “Điều 12. Trách nhiệm của Ngân hàng: Thực hiện đầy đủ, kịp thời các lệnh thanh toán, các yêu cầu sử dụng tài khoản của khách hàng phù hợp với quy định hoặc thoả thuận giữa Ngân hàng và khách hàng. Kiểm soát các lệnh thanh toán của khách hàng, đảm bảo lập đúng thủ tục quy định, hợp pháp, hợp lệ và khớp đúng với các yếu tố đã đăng ký; cung ứng đầy đủ, kịp thời các loại dịch vụ, phương tiện thanh toán cần thiết phục vụ nhu cầu giao dịch của khách hàng qua Ngân hàng. Hơn nữa các chứng cứ đã chứng minh các doanh nghiệp (DN) trên đều tự nguyện ký kết các giấy tờ văn bản, hồ sơ trả nợ, ủy nhiệm chi hợp pháp và đúng với các quy định của pháp luật (bút lục số 36203, 36120, 36127, 36131). Hồ  sơ  thanhtoán nợcho VDB – CNĐLĐN của các DN hoàn toàn phù hợp vớiQuyết định số 1092/2002/QĐ-NHNN ngày 8/10/2002 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành Quy định thủ tục thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Thời điểm các doanh nghiệp làm thủ tục trả nợ cho VDB - CNĐLĐN là vào các ngày 30/12/2010 - 30/01/2011, tại thời điểm này không có văn bản nào của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay của Cơ quan cảnh sát điều tra về việc cấm các DN trên chuyển tiền trả nợ cho VDB - Chi nhánh Đăk Lăk - Đăk Nông hoặc phong tỏa các tài khoản của các DN trên; Mãi đến ngày 10/03/2011 cơ quan Cảnh sát điều tra mới ra quyết định khởi tố vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra tại OCB (theo Bản cáo trạng VKS). Như vậy trước khi có quyết định khởi tố vụ án và quyết định phong tỏa tài khoản của các DN trên thì mọi giao dịch trước đó của các DN này đều được pháp luật công nhận và bảo vệ. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 9 Nghị định số 64/2001/NĐ-CP ngày 20/9/2001 quy định về thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán như sau: Tài khoản thanh toán bị phong tỏa 1 phần hoặc toàn bộ số tiền có trên tài khoản trong các trường hợp sau: Khi có thỏa thuận giữa chủ tài khoản và tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán; Khi có quyết định hoặc yêu cầu bằng văn bản của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

Theo luật sư Hưng thì không có một thỏa thuận nào giữa 3 bên là: VDB – CNĐLĐN, Ngân hàng TMCP Phương Đông - Sở GD TP HCM với các Doanh nghiệp trên để thỏa thuận việc VDB – CNĐLĐN có nghĩa vụ phong tỏa tài khoản của các Doanh nghiệp trên mở tại VDB – CNĐLĐN, cho nên VDB – CNĐLĐN không thể cấm các DN trên rút tiền trong tài khoản của mình tại VDB – CNĐLĐN. Việc các Doanh nghiệp cam kết không rút tiền để gửi cho vay là thỏa thuận giữa các Doanh nghiệp trên với Ngân hàng TMCP Phương Đông - Sở GD TP HCM, đây là quan hệ vay và cho vay độc lập không liên quan gì tới VDB – CNĐLĐN. Do vậy việc các Doanh nghiệp rút các khoản tiền có trong tài khoản của Doanh nghiệp tại VDB – CNĐLĐN để trả nợ cho VDB – CNĐLĐN phù hợp với các quy định của pháp luật.Căn cứ vào Điều 5 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN, ngày 31 tháng 12 năm 2001 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước có quy định về việc ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng như sau: Tổ chức tín dụng tự chịu trách nhiệm về quyết định trong cho vay của mình. Không một tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào quyền tự chủ trong quá trình cho vay và thu hồi nợ của tổ chức tín dụng.

- Không có văn bản pháp luật nào quy định việc VDB – CNĐLĐN phải xác minh nguồn gốc số tiền của khách hàng ở đâu để các DN trên có thể thực hiện việc trả nợ cho VDB – CNĐLĐN. Việc chứng minh nguồn gốc số tiền đó do chủ tài khoản chịu trách nhiệm trước pháp luật. Việc các Doanh nghiệp trên đã làm thủ tục trả nợ và VDB – CNĐLĐN cũng đã tiến hành các thủ tục giảm trừ số dư nợ cho các Doanh nghiệp trên ngay tại thời điểm các ngày 30/12/2010 - 30/01/2011 cũng như đã chuyển toàn bộ số tiền trên về Hội sở chính tại Hà Nội và cũng tại thời điểm đó VDB đã đưa toàn bộ số tiền thu được trên vào lưu thông, hạch toán, kiểm toán, bảo toàn được vốn cho nhà nước.

Như vậy, toàn bộ quá trình thanh toán nợ của các doanh nghiệp trên và thủ tục thu hồi công nợ của VDB - CNĐLĐN là ngay tình, phù hợp với trình tự thủ tục đã được pháp luật quy định, các cơ quan tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát) chưa có bất cứ văn bản nào khẳng định, kết luận việc thanh toán công nợ của các DN trên và thủ tục thu hồi công nợ của VDB - CN ĐLĐN là trái với các quy định của pháp luật. Trong nội dung Bản án phúc thẩm số 357/2014/HSPT ngày 26/9/2014 của Tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵngcũng không chứng minh được việc các DN trên làm thủ tục thanh toán nợ cho VDB - CN ĐLĐN và việc VDB - CN ĐLĐN thu hồi công nợ của các DN trên là trái với các quy định của pháp luật.

Chứng minh số tiền 511.464.742.716 đồng mà các Doanh nghiệp trên đã thanh toán nợ cho VDB - CN ĐLĐN không phải là vật chứng vụ án hình sự; Luật sư lý giải: Ngay tại tại Khoản 3, Điều 83 Bộ Luật Tố tụng Dân sự cũng đã quy định rõ: “Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc”. Thời điểm các doanh nghiệp làm thủ tục thanh toán nợ cho VDB là vào ngày 30/12/2010 - 30/01/2011, tại thời điểm này VDB Chi nhánh Đăk Lăk - Đăk Nông đã chuyển toàn bộ số tiền trên về Hội sở chính tại Hà Nội và VDB đã đưa toàn bộ số tiền thu được trên vào lưu thông, hòa vào nguồn vốn chung của VDB, từ đó VDB đã giải ngân cho các khoản vay đối với các dự án thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia, an sinh xã hội ngay tại thời điểm này.Như vậy, bản thân số tiền đó đã không còn là chính nó nữa, nên không thể coi là vật chứng theo tinh thần Điều luật nói trên.

Như vậy, trọng vụ việc này, toàn bộ số tiền trên đã được các DN trên làm thủ tục thanh toán nợ VDB - CN ĐLĐN theo đúng trình, thủ tục đã được pháp luật quy định tại Điều 471 Bộ luật Dân sự và khoản 16 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng. VDB - Chi nhánh Đăk Lăk - Đăk Nông cũng đã tiến hành các thủ tục giảm số dư nợ cho các Doanh nghiệp trên ngay tại thời điểm 30/12/2010 – 30/01/2011, đã chuyển toàn bộ số tiền trên về Hội sở chính tại Hà Nội và VDB đã đưa toàn bộ số tiền thu được trên vào lưu thông, hòa vào nguồn vốn chung của VDB, từ đó VDB đã giải ngân cho các khoản vay đối với các dự án thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia, an sinh xã hội ngày tại thời điểm các DN thanh toán nợ cho VDB - Chi nhánh Đăk Lăk - Đăk Nông trên . Do vậy Bản án phúc thẩm số 357/2014/HSPT ngày 26/9/2014 của Tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵngnhận định số tiền trên là vật chứng trong vụ án Hình sự này là trái với các quy định của pháp luật.

Từ những lý giải nói trên, luật sư Trần Viết Hưng đề nghị Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao kháng nghị tách phần dân sự về số tiền trên để giải quyết bằng vụ án khác theo trình tự tố tụng dân sự được quy định tại khoản 4 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự và ra quyết định tạm đình chỉ việc thi hành một phần bản án phúc thẩm số 357/2014/HSPT ngày 26/9/2014 của Tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng, tại nội dung sau “Ngân hàng Phát triển Việt Nam có trách nhiệm chuyển số tiền vật chứng là 511.464.742.716 đồng trong tài khoản tại giữ số 605.641800000091 của CQĐT mở tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam cho Ngân hàng TMCP Phương Đông - Sở giao dịch Tp.Hồ Chí Minh (gồm 100 tỷ đồng của Cao Bạch Mai; 305.903.549.653 đồng của Trần Thị Xuân; 30.000.000.000 đồng của Đặng Thị Ngân và 75.561.193.063 đồng của Nguyễn Thị Vân)”.

P.V

 

KinhDoanhNet

Cùng Chuyên Mục